Việt Đức và Thực Tế Di Cư trong nước Đức Thống Nhất
Lịch sử di cư từ Việt Nam sang Đức là một câu chuyện của thế kỷ 20 và của thời Chiến tranh Lạnh. Chiến tranh Lạnh đã định hình trật tự toàn cầu trong nửa sau của thế kỷ 20, và theo hai con đường hoàn toàn khác nhau, người Việt đã đến Cộng hòa Liên bang Đức và Đông Đức.
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và sự thống nhất của hai nhà nước Đức, việc tái định hình các mối quan hệ toàn cầu đã ảnh hưởng trực tiếp đến những người trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài ảnh hưởng đến công việc của họ, tình trạng cư trú và quan hệ giữa các cộng đồng người Việt khác nhau.
Lịch sử di cư từ Việt Nam sang Đức, tưởng như chỉ gói gọn trong một nhóm người cụ thể, lại phản ánh sự phức tạp của các điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa và chính trị của những người di cư. Bởi vì "di cư" là một từ đơn giản cho một mối quan hệ phức tạp cao giữa luật lao động, luật cư trú, luật tị nạn và quyền công dân, cùng với các thị trường lao động, nhà ở và giáo dục, cũng như các trải nghiệm cá nhân. Trong cái nhìn lại lịch sử di cư của người Việt Đức cho đến ngày nay, khi nước Đức thống nhất tròn 30 năm, một vài nét nổi bật sẽ được nêu ra để phác thảo thực tế xã hội của người Việt Đức. Khí hậu xã hội vào thời đó như thế nào? Tâm trạng ở Đức ra sao? Điều gì đã thay đổi? Điều gì vẫn còn tồn tại?
Từ Việt Nam đến Đức
Lịch sử di cư của người Việt Đức bắt đầu trong một thời kỳ mà các chế độ di cư và tị nạn được hình thành và thực hiện dưới một hệ tư tưởng và quan điểm cạnh tranh. Hiện nay, có khoảng 185.000 công dân Việt Nam và người gốc Việt sinh sống tại Đức. Con đường đến Đức của họ có thể được chia thành hai giai đoạn chính cho đến năm 1989: sự xuất hiện của những người tị nạn từ Việt Nam, còn được biết đến với cái tên "Thuyền nhân", tại Tây Đức từ năm 1975 đến năm 1986 và sự xuất hiện của công nhân hợp đồng tại Đông Đức theo các thỏa thuận hợp tác giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa "anh em" từ năm 1980 đến 1989. Bên cạnh dòng di cư vì lý do tị nạn và lao động, còn có các hình thức di cư vì học tập ở cả hai nhà nước Đức.
Ngay từ những năm 1950, hơn 300 học sinh Việt Nam đã đến Đông Đức. Đến những năm 1960 và 1970, nhiều người trẻ tuổi sang học tập tại Cộng hòa Liên bang Đức (2.055 người đến năm 1975) cũng như tại Đông Đức (42.000 người), trong đó phần lớn đã trở về Việt Nam. Những dòng di cư này kể về một câu chuyện đa tầng về sự ra đi, giao lưu và hội nhập qua nhiều thế hệ và quốc gia.
Thuyền nhân tại Tây Đức
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, nhiều người dân Việt Nam phải chạy trốn do đất nước bị tàn phá hoặc lo sợ bị đàn áp dưới chính quyền mới. Ước tính có khoảng 1,3 triệu người Việt Nam rời bỏ quê hương, trong đó có khoảng 400.000 đến 500.000 người thiệt mạng. Vì di chuyển qua Biển Đông, họ được gọi là "thuyền nhân". Các chiến dịch cứu hộ trên biển, bắt đầu từ năm 1979 với sự dẫn dắt của nhà báo Rupert Neudeck bằng tàu chở hàng Cap Anamur, được theo dõi sát sao ở Tây Đức, và vào những năm 1980, Cộng hòa Liên bang Đức là một trong 16 quốc gia tiếp nhận 38.000 thuyền nhân theo diện tị nạn hạn ngạch.
Nhờ việc cấp giấy phép cư trú không thời hạn, giấy phép làm việc ngay lập tức và các biện pháp hội nhập như khóa học ngôn ngữ, tư vấn và hỗ trợ, những người tị nạn có cơ hội định cư lâu dài. Với sự hỗ trợ của các tổ chức phúc lợi xã hội, bao gồm cả việc đoàn tụ gia đình, có tổng cộng 45.779 người Việt Nam tị nạn đã đến Tây Đức cho đến những năm 1990.
Nhiều người trong số họ đã an cư tại Đức, và việc hội nhập vào thị trường lao động, giáo dục và nhà ở hiện nay cho thấy một quá trình định cư thành công. Tuy nhiên, vẫn thiếu những nghiên cứu về cuộc sống hàng ngày và đời sống của thuyền nhân cùng các thế hệ tiếp theo. Lịch sử của thuyền nhân Việt Nam thường được xem như một câu chuyện thành công của một cộng đồng được coi là kiểu mẫu nhờ vào sự chăm chỉ, lịch sự và thích nghi tốt. Tuy nhiên, cần lưu ý hai khía cạnh trong cách nhìn này.
Thứ nhất, thuyền nhân đã nhận được sự đồng cảm đặc biệt từ xã hội Đức, một phần cũng do ảnh hưởng của Chiến tranh Lạnh. Họ trốn khỏi một chế độ cộng sản và được ưu tiên tiếp nhận bởi các quốc gia phương Tây, được tạo điều kiện dễ dàng để định cư. Đây là trường hợp ngoại lệ so với các nhóm tị nạn khác. Thứ hai, họ cũng phải đối mặt với sự phân biệt chủng tộc trong cuộc sống hàng ngày và các hành vi bạo lực phân biệt ở Đức, đồng thời bị đặt vào tình thế cạnh tranh với các nhóm di cư khác. Mối quan hệ cạnh tranh này, dựa trên câu chuyện thành công của "nhóm thiểu số kiểu mẫu", đã làm phức tạp hóa sự khác biệt giữa các nhóm và bỏ qua các điều kiện cơ cấu cũng như những phân biệt đối xử bằng cách biến sự khác biệt thành vấn đề văn hóa.
Công nhân hợp đồng tại Đông Đức
Trái ngược với câu chuyện của thuyền nhân, câu chuyện của những công nhân hợp đồng Việt Nam tại Đông Đức là câu chuyện về xây dựng, chủ yếu dựa trên lợi ích của hai quốc gia xã hội chủ nghĩa. Ngay từ những năm 1950, trẻ em Việt Nam đã đến Đức trong khuôn khổ một chương trình đoàn kết giữa Đông Đức và miền Bắc Việt Nam, được tiếp nhận và nuôi dạy tại đây. Tại Moritzburg, Sachsen có một nhà trẻ, nơi các trẻ mồ côi từ Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam được chăm sóc. Sau đó, nhiều thanh niên Việt Nam đã đến học tập tại các trường đại học ở Đông Đức – một số trong số họ sau này trở thành phiên dịch cho các công nhân hợp đồng. Khi đó, nhiều sinh viên Việt Nam cho biết họ được đón tiếp thân thiện và sẵn sàng trở lại Đông Đức. Tuy nhiên, vào những năm 1980, họ ngày càng gặp phải một môi trường thù địch.
Do có tới 3,1 triệu người dân Đông Đức rời khỏi đất nước trước khi Bức tường Berlin được dựng lên vào năm 1961, Đông Đức đã phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động. Từ những năm 1960, Đông Đức đã ký kết nhiều hiệp định hợp đồng lao động với các nước: với Ba Lan (1963), Hungary (1967), Algeria (1974), Cuba (1975), Mozambique (1979), Việt Nam (1980) và Angola (1984), cũng như với Mông Cổ (1982), Trung Quốc (1986) và Triều Tiên (1986) ở mức độ nhỏ hơn. Các hiệp định này chủ yếu quy định thời gian và hình thức lưu trú của các công nhân hợp đồng và bao gồm các thỏa thuận giữa các nhà nước, nhưng không được công khai rộng rãi.
Hiệp định về lao động hợp đồng giữa Đông Đức và Việt Nam được ký kết vào năm 1980, cho phép Đông Đức tuyển dụng khoảng 70.000 công nhân hợp đồng. Những công nhân này đến Đông Đức qua hai giai đoạn: Trong giai đoạn đầu từ năm 1980 đến 1984, chủ yếu là những người có tay nghề đến làm việc tại đây, trong khi giai đoạn thứ hai từ năm 1987 đến 1989, đa số là những người chưa qua đào tạo và không biết tiếng Đức, được tuyển dụng vào các công việc đơn giản, chẳng hạn như trong ngành dệt may.
Những người lao động nam và nữ khi nhập cảnh không được phép vừa tham gia công việc hợp đồng vừa lập gia đình tại Đông Đức: Phụ nữ Việt Nam trong trường hợp mang thai buộc phải rời khỏi Đông Đức. Mối quan hệ giữa các công nhân hợp đồng và đồng nghiệp hoặc với xã hội rộng lớn hơn không được khuyến khích; họ được bố trí nơi ở và sinh hoạt giải trí tách biệt, và việc định cư hay hòa nhập vào xã hội Đông Đức là điều cần tránh. Việc chăm lo và giám sát toàn diện cho các công nhân hợp đồng nước ngoài ở Đông Đức được gọi là “chế độ chăm sóc độc tài”, trong đó nhu cầu cá nhân của các công nhân hợp đồng hầu như không được quan tâm.
Người Việt Đức sau thời kỳ tái thống nhất
Khi Đông Đức sụp đổ, triển vọng tương lai của các công nhân hợp đồng Việt Nam trở nên bấp bênh. Đến năm 1997, mới có một cơ sở pháp lý cho những công nhân hợp đồng vẫn còn ở Đức. Trước đó, các quy định về cư trú và làm việc rất khắt khe, chỉ cho phép họ định cư thông qua tự kinh doanh, đồng thời có những khoản trợ cấp cho việc trở về Việt Nam. Tại các thành phố, nhiều người đã tự lập với các cửa hàng thực phẩm, quán ăn nhanh và tiệm hoa. Mạng lưới kinh tế này mở rộng từ các bang mới của Đức tới Ba Lan, Cộng hòa Séc và Slovakia, nơi hình thành các trung tâm thương mại châu Á, như "Chợ châu Á", điển hình là Trung tâm Đồng Xuân ở Berlin-Lichtenberg khai trương năm 2005. Một số cựu công nhân hợp đồng cũng chuyển đến Tây Đức và thích nghi với hoàn cảnh mới. Tại đây, sự phân biệt giữa người Việt Nam miền Nam và miền Bắc vẫn tồn tại, đặc biệt là sự khác biệt về lập trường (chống) cộng sản. Tây Đức có nhiều hội đoàn người Việt và cộng đồng Phật giáo hơn Đông Đức, chủ yếu do hoạt động của các thuyền nhân, nhưng cũng được các cựu công nhân hợp đồng tham gia ngày càng nhiều sau khi Đức tái thống nhất.
Trong bối cảnh bất ổn về kinh tế ở một xã hội dường như đang tan rã, các cựu công nhân hợp đồng Việt Nam phải đối mặt với một bầu không khí xã hội mà họ cảm thấy bị đe dọa về thể xác. Trải nghiệm chuyển đổi của họ không tạo ra một cộng đồng đoàn kết với các nhóm dân cư Đông Đức khác. Thay vào đó, sự hiện diện của họ được coi là mối cạnh tranh trên thị trường lao động, một sự phản đối ngày càng mạnh mẽ trong những năm cuối cùng của Đông Đức. Họ đã phải chịu đựng sự thù địch công khai. Từ góc độ của người Việt ở Đông Đức, có thể nói đây là một trải nghiệm chuyển đổi đặc biệt, hoặc ít nhất là một sự đan xen giữa biến đổi xã hội và di cư. Tuy nhiên, các mô tả về quá trình chuyển đổi xã hội ở Đức sau khi thống nhất chủ yếu tập trung vào người Đức (da trắng) ở các bang mới, bỏ qua kinh nghiệm của các cộng đồng di dân.
Những năm đầu của nước Đức thống nhất rõ ràng cho thấy một bên là những người đoàn tụ, và bên kia trở thành “người khác”. Song song với câu hỏi về bản sắc quốc gia của nước Đức thống nhất, một cuộc tranh luận chính trị về luật tị nạn cũng nổ ra. Nguyên nhân là số lượng người xin tị nạn tăng lên từ những năm 1980, tăng mạnh trong bối cảnh biến động toàn cầu khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và Nam Tư tan rã. Cảm xúc mạnh mẽ trong cuộc tranh luận này cũng dẫn đến bạo lực đối với những nhóm người được coi là "khác biệt", lên đến đỉnh điểm trong các cuộc bạo loạn ở Hoyerswerda từ ngày 17 đến 23 tháng 9 năm 1991 và ở Rostock-Lichtenhagen từ ngày 22 đến 26 tháng 8 năm 1992. Tại đó, các phần tử cực hữu đã tấn công các khu nhà ở của cựu công nhân hợp đồng Việt Nam và người xin tị nạn trước sự reo hò của đám đông, trong khi cảnh sát không can thiệp hiệu quả suốt nhiều ngày. Trong khi không ai thiệt mạng trong các sự kiện này, thì vào ngày 23 tháng 11 năm 1992 ở Mölln và ngày 29 tháng 5 năm 1993 ở Solingen, các vụ đốt phá nhằm vào người gốc Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến 8 người chết và 26 người khác bị thương. Từ năm 1990 đến khi luật "Thỏa thuận về tị nạn" được thông qua vào tháng 5 năm 1993 – một thỏa thuận giữa các đảng CDU/CSU, FDP và SPD nhằm sửa đổi hiến pháp để thắt chặt quyền tị nạn – có 27 người đã bị giết do bạo lực phân biệt chủng tộc.
Tuy nhiên, bạo lực phân biệt chủng tộc không chỉ gia tăng sau khi thống nhất mà đã là một mối nguy hiểm từ trước đó, cả ở Đông và Tây Đức. Chỉ riêng với các nạn nhân người Việt, kể từ năm 1980, đã có năm trường hợp được ghi nhận, trong đó người Việt bị giết hoặc tử vong do các cuộc tấn công mang động cơ phân biệt chủng tộc.
Cộng đồng người Việt tại Đức ngày nay
"Cộng đồng Việt-Đức", "Người Đức gốc Việt", "Vossis", "Người Đức gốc Việt Nam" – những thuật ngữ này chỉ đến các cách gọi khác nhau và thay đổi linh hoạt theo ngữ cảnh để xác định vị trí trong xã hội Đức và đưa trải nghiệm của cộng đồng người Việt tại đây vào cuộc sống. Nhiều người đóng góp cho quá trình này tại nhiều nơi, và đặc biệt là các phụ nữ trẻ thuộc thế hệ thứ hai trong cộng đồng Việt-Đức, họ đang tích cực tìm hiểu và suy ngẫm về lịch sử của bản thân. Họ tìm cách giao lưu và phản ánh sự đa dạng trong lịch sử di cư của mình cũng như tính đồng nhất của các định kiến phân biệt chủng tộc mà họ phải đối mặt.
Năm 2012, nhà khoa học chính trị Kiến Nghị Hà đã xuất bản cuốn sách "Người Đức gốc Á – Cộng đồng người Việt Nam và xa hơn nữa", tạo ra một không gian đối thoại mới để bày tỏ trải nghiệm của người châu Á trong cộng đồng người Việt tại Đức, vượt qua biên giới quốc gia và kết nối với các cộng đồng khác cũng bị phân biệt chủng tộc. Đạo diễn sân khấu Đan Thy Nguyễn ở Hamburg đã tái hiện cuộc bạo loạn Rostock-Lichtenhagen thông qua các cuộc phỏng vấn trong vở kịch và chương trình phát thanh "Ngôi nhà hoa hướng dương". Vanessa Vũ, một trong "Top 30 dưới 30" của tạp chí "Medium" năm 2018, viết cho tờ "Zeit" về các chủ đề phân biệt chủng tộc, sự kỳ thị và các câu chuyện của người Việt trong cộng đồng người Việt tại Đức. Cô cùng với nhà báo phát thanh Minh Thu Trần thực hiện podcast và dự án cộng đồng "Rice and Shine" được đề cử Giải Grimme Online năm 2019 về các câu chuyện của cộng đồng Việt-Đức. Nhà báo Nhi Lê cũng có blog riêng, nơi cô viết về cuộc sống trong cộng đồng người Việt tại Đông Đức và những phân tích nữ quyền về văn hóa đại chúng. Nhà hoạt động nhân quyền Thủy Nonnemann, người đã dành hàng thập kỷ đấu tranh cho quyền lợi của người tị nạn và người di cư, đã được trao Huân chương Công trạng của Berlin vào năm 2013.
Nhà báo khoa học Mai Thy Nguyễn với video "Corona chỉ vừa mới bắt đầu" trên YouTube đã đạt sáu triệu lượt xem. Marcel Nguyễn là một vận động viên thể dục dụng cụ thành công, và Minh-Khai Phan-Thị là một diễn viên, người dẫn chương trình và đạo diễn nổi tiếng.
Tất cả họ, cùng với nhiều người khác có nguồn gốc Việt Nam, minh chứng cho sự đa dạng trong nước Đức thống nhất. Đồng thời, họ cũng nhắc nhở rằng 30 năm thống nhất nước Đức không chỉ là câu chuyện về sự đa dạng hóa, mà còn là câu chuyện về sự tiếp diễn của sự phân biệt chủng tộc trong nước Đức hậu quốc xã.
Phần kết
Tôi viết bài này với tư cách là một người Đức gốc Á, không có nền tảng gia đình trực tiếp liên quan đến cộng đồng người Việt tại Đức, nghĩa là tôi viết về một lịch sử di cư không phải của bản thân. Tuy nhiên, đặc biệt trong thời kỳ đại dịch Corona, tôi chia sẻ một trải nghiệm chung với những người gốc Việt, Nhật, Hàn, Trung và các cộng đồng châu Á khác tại Đức: sự kỳ thị hàng ngày dưới dạng những nhận xét nhỏ nhặt, xúc phạm, khái quát hóa và thậm chí là sự thù địch công khai trên đường phố. Trải nghiệm này cho thấy sự phân biệt chủng tộc qua những định kiến, không phụ thuộc vào lịch sử di cư cá nhân hay nguồn gốc địa lý, và có thể xảy ra với cả những người đã sinh sống ở Đức qua ba thế hệ và có quốc tịch Đức. Kết quả là sự loại trừ vẫn tiếp diễn sau khi di cư, đến nơi và hòa nhập vào các tổ chức giáo dục, thị trường lao động và nhà ở và trở nên rõ ràng trong đại dịch Corona.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả những người, những công trình, kiến thức và sự tận tâm của họ đã giúp tôi có thể viết nên bài viết này.
tin-tuc.de tổng hợp & biên dịch | theo báo bpb.de | Tác giả: Noa K. Ha